Biên soạn: TS. BSTY. Đinh Xuân Phát
4. Tác dụng đề kháng của sữa đầu và sữa
Niêm mạc đường ruột heo con sẽ se khít lại sau khoảng 24-36 giờ, kết thúc khả năng hấp thu những đại phân tử hay tế bào miễn dịch, thường hiện diện nhiều trong sữa đầu. Mặc dù vẫn còn khả năng nhập hoặc xuất bào đối với các phân tử kháng thể nhờ sự hiện diện của những thụ thể dành cho phần Fc của kháng thể trên bề mặt các tế bào biểu mô đường ruột. Bên cạnh đó, các sIgA (IgA dạng tiết) có tính bám chọn lọc lên các tế bào M trong mảng Peyer (tổ chức lympho dọc theo biểu mô đường ruột) nhờ đó các kháng thể này vẫn tiếp tục được vận chuyển từ sữa trong lòng ruột vào các tổ chức lympho của đường ruột.

Ở chiều ngược lại, khi thú có hệ miễn dịch đã phát triển và có khả năng tự tạo kháng thể đặc hiệu thì các kháng thể IgA được tiết ra trong biểu mô đường ruột lại được vận chuyển từ trong biểu mô màng nhầy ruột ngược ra bề mặt lớp biểu mô màng nhày ruột. Các kháng thể hiện diện trên bề mặt màng nhầy ruột để làm việc như những lính gác cửa khẩu, không cho tác nhân gây bệnh xâm nhập qua màng nhầy ruột. IgA và IgM từ sữa được tìm thấy trong các tế bào thuộc hốc ruột (intestinal crypts) trong khi các IgG được tìm thấy trên các tế bào thuộc cấu trúc lông nhung (nhung mao, villi) của đường ruột. Điều đó chứng tỏ rằng các loại kháng thể khác nhau được hấp thu vào hoặc tiết ra ngoài theo các con đường và phương cách khác nhau.
Các loại kháng thể có mặt trong sữa đầu và sữa đều có khả năng bảo vệ đường ruột. Thông thường, IgM và IgG chiếm hàm lượng cao hơn trong sữa đầu trong khi IgA chiếm ưu thế trong sữa trên heo, chuột và người. Đây là lý do vì sao nhiều nỗ lực đã và đang được thực hiện để tạo nhiều, để nâng cao và duy trì hàm lượng IgA cao trong sữa mẹ trên những loài này nhằm bảo vệ con sơ sinh tốt hơn. IgA không chiếm ưu thế trong sữa của loài nhai lại (tham khảo thêm trong phần ‘Thành phần kháng thể và tế bào miễn dịch trong sữa bò’).
Trên heo, 70% IgG và hơn 90% IgM cũng như IgA trong sữa là được tổng hợp bởi những tương bào có mặt trực tiếp trong tuyến vú.
4.1. Tác dụng kháng khuẩn của kháng thể trong sữa
Trên heo, trong lớp dưới niêm mạc (cũng gọi là lớp đệm niêm mạc = lamina propria) của đường ruột, tương bào sản xuất IgM có số lượng bằng với tương bào sản xuất IgA khi heo ở độ tuổi 4 tuần. Sau đó, số lượng tương bào sản xuất IgA dần tăng và chiếm ưu thế rõ ràng ở 12 tuần tuổi (Bianchi et al., 1999). Chính vì thế, hoạt động trung hòa kháng nguyên và vi sinh vật diễn ra trên các màng nhầy như hệ tiêu hóa, hô hấp, niệu dục trên heo chủ yếu do IgA chịu trách nhiệm (Salmon, 1999). Nguồn gốc của các IgA có mặt trên niêm mạc ruột heo con trong thời gian đầu là trực tiếp từ sữa, hoặc gián tiếp được sản xuất bởi các tương bào có nguồn gốc từ tế bào lympho B trong sữa mẹ; sau đó được sản xuất bởi các tương bào được tạo ra từ các lympho B trong hệ miễn dịch của bản thân heo con. Việc trung hòa và tiêu diệt kháng nguyên hay vi sinh vật trong đường ruột của IgA làm giảm lượng vi sinh vật bài thải trong chuồng trại, trực tiếp bảo vệ sức khỏe từng cá thể và đồng thời gián tiếp bảo vệ sức khỏe toàn đoàn trên trang trại.

Hình 7 mô tả tác dụng trung hòa virus của kháng thể mẹ truyền đặc hiệu trong sữa. Chúng hoạt động bằng cách bám đặc hiệu lên các protein bề mặt của virus, khi đó, virus không thể tiếp cận tế bào để xâm nhập.
4.2. Tác dụng chuyển giao kháng nguyên của sữa
Ngoài công tác chuyển giao kháng thể, sữa đầu và sữa còn chứa những chất có tính kháng nguyên trong khẩu phần ăn của mẹ, nhằm giúp cho thú con được tiếp xúc với những kháng nguyên tự nhiên này từ đó định hình sự dung nạp miễn dịch đối với chúng. Điều này rất quan trọng để cơ thể thú con không bị dị ứng với các loại thức ăn thường dùng trong khẩu phần của chúng sau này. Thành phần cytokine TGF-β (TGF-beta) trong sữa là yếu tố thúc đẩy sự dung nạp miễn dịch. Các khoa học gia ghi nhận rằng những kháng nguyên trong không khí (phấn hoa, bụi, các mảnh protein của vi sinh vật, côn trùng...) thường dễ dàng được chuyển giao cho con qua sữa. Và những thành phần này, cùng với tác dụng của TGF-β lên quần thể lympho T, sẽ hướng dẫn cơ thể dung nạp những kháng nguyên này (Verhasselt et al., 2008). Quan trọng hơn, các virus cũng được vận chuyển qua sữa. Thí nghiệm đối với virus tai xanh (PRRS) cho thấy nái hậu bị được tiêm virus PRRS vào cuối giai đoạn mang thai sẽ bài thải virus qua sữa (Wagstrom et al., 2001). Trong khi nái tiếp xúc với virus TGE qua đường miệng cũng nhanh chóng bài thải virus qua sữa (Kemeny and Woods, 1977).
Tài liệu tham khảo
1. Bianchi, A.T., Scholten, J.W., Moonen Leusen, B.H., Boersma, W.J., 1999. Development of the natural response of immunoglobulin secreting cells in the pig as a function of organ, age and housing. Dev Comp Immunol 23, 511-520.
2. Kemeny, L.J., Woods, R.D., 1977. Quantitative transmissible gastroenteritis virus shedding patterns in lactating sows. Am J Vet Res 38, 307-310.
3. Salmon, H., 1999. The mammary gland and neonate mucosal immunity. Vet Immunol Immunopathol 72, 143-155.
4. Verhasselt, V., Milcent, V., Cazareth, J., Kanda, A., Fleury, S., Dombrowicz, D., Glaichenhaus, N., Julia, V., 2008. Breast milk-mediated transfer of an antigen induces tolerance and protection from allergic asthma. Nat Med 14, 170-175.
5. Wagstrom, E.A., Chang, C.C., Yoon, K.J., Zimmerman, J.J., 2001. Shedding of porcine reproductive and respiratory syndrome virus in mammary gland secretions of sows. Am J Vet Res 62, 1876-1880.
6. Holistic health journal, 2013. The remarkable health benefits of colostrum.